Thương lắm mùa thi ơi


Đi giữa con đường xao xác lá me bay
Thương thế mùa thi phố cũng dài da diết
Nhớ lắm bạn tôi ơi
Có bao giờ nuối tiếc?

Tuổi học trò còn bao đứa dở dang.
Miệt mài đi rồi đời sẽ thênh thang
Cứ để bài thơ mình trôi thành kỷ niệm
Mơ về nhau như cánh bằng lăng tím
Lưu bút trao tay không thể viết nên lời

Thương qua mùa thi ve một mình sầu hát
Đám học trò không còn nghịch dưới sân
Xác phượng rụng nằm buồn không ai nhặt
Mùa thi mà, ai cũng bận rộn hơn
Đám học trò năm cuối phải ngoan
Để lại sau lưng mối tình đầu vụng dại
Một lần và mãi mãi...
Thương lắm một mùa thi.

VÕ THỊ NGỌC DUYÊN
Đọc Tiếp

Nhà Xác!


Cũng như những đứa bạn khác đều là sinh viên y dược thì chuyện canh nhà xác là chuyện bình thường và là điều mà mọi sinh viên ngành y dù muốn hay không vẫn phải cố gắng tập sự can đảm chấp nhận.

Rồi cũng đến lượt tôi và thằng Lâm phải trực nhà xác để đón nhận những tử thi mới làm thủ tục "nhập môn", thường thì ca trực vào cả ngày lẩn đêm và chia theo ca 8 tiếng, thế nhưng hôm ấy tôi và thằng Lâm phải trực ca tối mới ghê chứ, trước khi đi nhỏ Thảo bảo Lâm nên mang theo tỏi hay thứ gì đó hộ mệnh cũng được vì nghe đâu mấy đứa trước làm như thế thì im re mọi chuyện, thằng Lâm cười ha hả bảo Thảo dở hơi, ừ thì sao cũng được với tôi chỉ là thủ tục nhỏ thôi mà, tôi cũng không chú tâm chuyện này lắm.

Rồi buổi tối ấy cũng đến, tôi và thằng Lâm ngồi với mớ bài đem theo bên cạnh tò te đọc vài dòng, sau khi nhận vào ca trực khoảng 1 tiếng thì có một xác được đưa vào tôi và Lâm cùng làm thủ tục "nhập môn" cho cái xác này, đâu vào đấy tôi bảo Lâm đi mua tờ báo gì đó dưới cổng bệnh viện để đọc vì buồn quá, lúc chuẩn bị đi thì mưa như trút nước, cái lạnh hăng hắc mơn man làm tôi có cảm giác nổi da gà, thằng Lâm thì co ro trên cái ghế trực cạnh một cái bàn chơ vơ dọc theo lan can của phòng xác. Mưa như hối hả hơn và cũng tạnh nhanh hơn, mới đó mà 12h khuya! nhanh quá, tôi và Lâm nghĩ vậy, ngoài trời chỉ còn lất phất mưa, ánh đèn neon đã cũ mờ ảo sáng đục, gió thì vẫn thoang thoáng bay qua lành lạnh. tôi bảo Lâm có thể ngủ vài tiếng tôi có thể ngồi trực cho nó, sau đó sẽ đến lượt tôi ngủ, nó đồng ý và ngồi gục xuống cạnh bàn ngủ thiềp đi.

Tôi ngồi tra lại mấy bài thuốc vừa được học sáng nay, vừa được khoảng 15 phút thì có chị y tá thấp thoáng với áo pờlu trắng đi lại bảo tôi chuẩn bị mở cửa phòng để chuyển một xác người vào, tôi hối hả và mừng thầm vì ít ra có người để mình bắt chuyện sau khi làm xong công việc, tôi không đánh thức Lâm dậy mà một mình lại mở cửa phòng vào trong kéo chiếc xe để xác người ra ngoài, cái lạnh trong phòng làm tôi không chịu nổi, lạnh khủng khiếp, như phản xạ tôi vào kéo chiếc bàn chở nào gần mình nhất để đưa ra ngoài bất chợt nhìn sang cạnh một bàn để xác gần đó tôi thấy cảm giác quen vô cùng, trong vài giây suy ngẫm....thì ra...đó là...chị y tá lúc nãy bảo tôi vào đây lấy bàn để xác....tôi không biết thế nào để diễn tả nổi, chân tôi như đuối đi, tôi không còn cảm giác lạnh gì nửa mà thay vào đó là cảm giác khiếp hoảng, tôi cố gắng chạy thật nhanh ra kéo thằng Lâm ngồi dậy, nhìn mặt nó mơ màng nhưng tôi vẫn cố gắng nói hết những gì mình vừa thấy, nói xong nó bảo " mày nói gì vậy? chị ấy ở đằng sau mày kia mà"....hả....cái gì??? tôi vội vã kéo nó chạy xuống phòng trực ban của bệnh viện lấy một viên an thần uống vào - trùm mền ngủ đến sáng, hi vọng lần sau không chứng kiền những gì thấy đêm qua nữa.
Đọc Tiếp

Thầy Lang Dốt


Có thầy lang nọ cứ động ai hỏi bệnh gì là y như giở sách tra. Ðã thế lại dốt. Một lần có con bệnh đau bụng nặng, người nhà nửa đêm chạy đến tìm thầy, nhờ thầy cứu. Thầy thắp đèn, lấy sách ra tra, rồi bảo: "Ði mua mấy lạng nhân sâm về sắc lấy nước mà uống." Con bệnh đau bụng uống nhân sâm vào, càng đau, đến sáng thì chết. Người nhà đâm đơn kiện. Thầy phải lên cửa công. Quan hỏi:

- Thầy bốc thuốc thế nào lại để người ta chết như thế?

Thầy trả lời, vẻ chắc chắn:

- Bẩm, tôi bố thuốc có sách, chứ đâu phải bốc bậy đâu ạ! Sách dạy thế nào, tôi cứ làm theo thế ấy.

Quan hỏi đến sách, thầy đưa sách ra. Giở đến trang có bài thuốc nhân sâm, cuối trang có ghi: Phúc thống phục nhân sâm (Nghĩa là: Ðau bụng uống nhân sâm), nhưng chưa chấm câu, giở trang bên kia thì thấy thêm hai chữ tắc tử. (nghĩa là: thì chết.)
Đọc Tiếp

Con Chim Hoạ Mi


Ở Trung Quốc, nơi mà Hoàng đế là một người Trung Quốc và tất cả quần thần cũng là người Trung Quốc, các bạn hẳn cũng biết điều đó, đã có một câu chuyện.
Câu chuyện này xảy ra lâu lắm rồi, nhưng chính vì thế mà phải kể lại để người ta khỏi quên đi.

Cung điện của Hoàng đế đẹp nhất trần gian, làm bằng một loại sứ rất quý, nhưng dễ vỡ, mỗi khi chạm đến phải thật nhẹ tay, nhẹ chân. Trong vườn Thượng uyển trồng toàn những loại hoa quý, rất kỳ lạ, những bông hoa đẹp nhất phải đeo lục lạc bằng bạc để cho du khách khi đến xem phải lưu ý. Khu vườn được chăm sóc kỳ công và trải rộng, ngay người làm vườn cũng không biết đến đâu là hết.

Càng đi càng gặp nhiều điều kỳ thú, những cây cao bóng cả vươn dài, những hồ rộng mênh mông sâu thẳm. Rừng thoai thoải xuống biển, trên làn nước xanh những con thuyền lớn có thể lướt dưới bóng cây. Nơi đây có con hoạ mi thường cất tiếng hót mê hồn. Một anh thuyền chài nghèo khổ lòng chứa chất bao nỗi lo toan dăng lưới đi qua, nghe tiếng chim hót cũng phải dừng lại nghe. Anh reo lên: "Trời ơi, Thánh thót biết bao".

Nhưng rồi mải mê với công việc, anh ta quên chim ngay. Đêm sau đi dăng lưới qua đấy, anh lại nghe tiếng chim hót: anh lại đứng lại nghe và lại reo lên: "Trời ơi, Thánh thót biết bao".
Khách tham quan từ nhiều nước trên thế giới kéo đến hoàng thành. Họ ca ngợi hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng khi nghe hoạ mi hót, họ đồng thanh reo lên: "Đấy mới là điều kỳ diệu".

Trở về quê hương, họ thuật lại những điều mắt thấy tai nghe. Nhiều học giả đã viết thành sách ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng người ta ca tụng hoạ mi nhiều hơn cả, những thi sĩ nổi tiếng đã làm những bài thơ kiệt tác để ca ngợi con chim hoạ mi hót hay trong khu rừng bên bờ biển. Sách được truyền đi khắp nơi, có quyển lọt vào tay Hoàng đế. Người chăm chú đọc, nhiều lúc gật đầu tán thưởng những đoạn văn hay ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển.

Đọc tiếp, người thấy có đoạn viết: "Nhưng con chim hoạ mi mới thật là kỳ diệu!" Hoàng đế ngạc nhiên:

- Gì thế này? Con chim hoạ mi à? Sao ta lại không biết nhỉ? Có đúng là trong giang sơn ta; hơn nữa lại ngay trong vườn của ta, lại có một con chim như thế không? Ta chưa hề nghe nói bao giờ, lạ thật!

Hoàng đế truyền gọi quan thị lang là người cầm quyền cao chức trọng; mỗi khi có kẻ dưới đến trình báo hay thỉnh cầu điều gì, ngài chỉ trả lời cộc lốc: "Hớ!"
Hoàng đế phán hỏi:

- Ở đây chừng như có một con chim người ta gọi là hoạ mi. Thiên hạ cho rằng con chim này là loại chim quý hiếm. Vậy sao chưa thấy ai tâu với Trẫm?"
Quan thị lang thưa:

- Muôn tâu bệ hạ, chính hạ thần cũng chưa nghe thấy nói bao giờ và cũng chưa thấy ai đem đến tiến cử.

- Vậy ngay tối nay phải đem nó đến hót cho Trẫm nghe. Thiên hạ biết đến vật báu của Trẫm mà riêng Trẫm lại không biết!

Quan Thị Lang tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, thực tình hạ thần chưa hề thấy con chim ấy, nhưng hạ thần xin đi tìm nhất định sẽ tìm được.

Nhưng tìm đâu? Quan Thị Lang đã leo lên khắp lầu son gác tía, qua khắp các cung điện và đường lối đi lại, gặp ai cũng hỏi, nhưng chẳng ai biết gì về chim hoạ mi cả.
Quan Thị Lang lại vào chầu hoàng đế:
- Tâu thánh thượng - Ngài nói - Có lẽ sách đã đánh lừa độc giả, xin bệ hạ đừng tin, đây chỉ là chuyện hoang đường.
Hoàng đế phán:

- Những sách ta xem là những sách của Hoàng đế Nhật Bản gửi tặng, lẽ nào lại là chuyện bịa đặt? Trẫm muốn được nghe chim hoạ mi hót ngay tối nay. Trẫm sẽ ban thưởng cho chim nhiều ân huệ. Nếu không đưa được hoạ mi đến thì cả triều đình sẽ bị phạt giẫm lên bụng sau khi ăn cơm no.
Quan Thị lang cúi chào Hoàng thượng ra về. Rồi ngài chạy tới chạy lui, leo lên leo xuống, khắp cả lầu son gác tía, vào khắp các phòng trong hoàng cung, sục sạo mọi ngõ ngách, một nửa triều thần cũng làm như thế, vì chẳng ai muốn chịu tội giẫm lên bụng. Rõ là một cuộc chạy đua loạn xạ để tìm một con chim cả thiên hạ biết tiếng chỉ trừ Hoàng đế và đình thần.
Cuối cùng họ vớ được một cô bé thị tì.

- Trời ơi! - Cô bé kêu lên - Con chim hoạ mi! Cháu biết! Nó hót hay lắm! Chiều nào mang cơm thừa cho mẹ đang ốm, lúc về mỏi chân đứng nghỉ trong rừng, cháu cũng được nghe nó hót. Những lúc ấy cháu thấy sung sướng đến chảy nước mắt như khi được mẹ cháu ôm hôn vậy.

Quan Thị lang nói như reo:
- Cháu bé ngoan lắm! Cháu hãy đưa ta đến chỗ hoạ mi đậu, ta sẽ ban cho cháu một chức vị ở trong nhà bếp và cho phép cháu được vào xem Hoàng đế ngự thiện. Cháu cần đi ngay vì tối nay đã phải đem chim đến hót cho Hoàng đế nghe.
Cả một nửa triều đình theo con bé thị tì vào rừng nơi có hoạ mi hót. Dọc đường bỗng nghe tiếng bò rống, một thị đồng reo lên: Hoạ mi đấy! Chim gì mà lớn tiếng thế! Hình như tôi đã được nghe ở đâu rồi!

Nữ tì nói:
- Không phải đâu! Bò rống đấy! Còn phải đi lâu mới tới!
Lúc sau lại có tiếng ì uôm của một con ễnh ương ở trong ao. Pháp tăng trong triều cũng đi theo đoàn reo lên:
- Hoạ mi đấy! Nghe sao mà thánh thót thế! Chưa bao giờ bần tăng được nghe một giọng chim hót hay như thế!

Nữ tì nói:
- Không phải đâu! Đấy là ễnh ương!
Đi thêm một quãng, thị tì bảo mọi người:
- Hãy im lặng mà nghe! Nó đấy! Hoạ mi đấy - Thị tì nói và chỉ một con chim nhỏ lông xám đang đậu trên một cành cây.

Quang Thị lang ngạc nhiên:
- Hoạ mi đấy à? Ta cứ tưởng nó đẹp kia chứ? Bộ lông nó trông tầm thường quá! Hay là trước mặt đông đủ quần thần nó sợ, tái sắc đi?

Thị tì cất tiếng gọi:
- Hoạ mi ơi! Hoàng đế muốn nghe hoạ mi hót đấy.
- Rất vui lòng! - Hoạ mi trả lời.
Và cất tiếng hót thánh thót mê hồn.
Quan thị lang khen:
- Nghe trong như những tiếng nhạc bằng pha lê. Cái cổ họng nó xinh xắn cứ phập phồng. Thế mà chưa bao giờ được nghe hoạ mi hót cũng tiếc thật. Vào hoàng cung chắc nó sẽ được triều đình và hoàng gia nhiệt liệt hoan nghênh.

Tưởng hoàng đế có mặt ở đấy, hoạ mi hỏi:
- Tôi có phải hót lần nữa cho thánh thượng nghe không?
Quan thị lang nói:
- Hoạ mi ơi! Người hãy theo chúng ta về cung hót cho Hoàng đế mê say.
- Giọng hót của tôi ở chốn rừng này, dưới vòm cây này, mới là hay nhất.
Hoạ mi nói thế, nhưng khi biết Hoàng đế muốn nó đến hót tại hoàng cung, nó cũng vui lòng đi theo.

Ở hoàng cung người ta đã chuẩn bị tiếp thật long trọng.
Hàng ngàn cây đèn bằng vàng sáng chói trên sân rồng và trên các bệ bằng sứ. Hàng hiên rực rỡ những chậu hoa hiếm thấy, chuông bạc ngân vang mỗi khi gió thoảng nhẹ.
Chính giữa đại diện, nơi Hoàng đế ngự có để sẵn một cành cây bằng vàng cho chim đến đậu. Văn võ bá quan tề tựu đông đủ; cả cô thị tì mới được phong chức đầu bếp, cũng được phép đến nấp nghe sau cánh cửa. Các quan đều mặc phẩm phục, chăm chú chiêm ngưỡng con chim màu xám đang líu lo trên cành vàng.

Hoạ mi hót hay đến nỗi Hoàng đế xúc động, sụt sùi, nước mắt giàn giụa. Người rất hài lòng, truyền đeo chiếc thẻ bà bằng vàng vào cổ chim để thưởng công. Nhưng hoạ mi khước từ nói:
- Như thế này là vinh dự cho tôi lắm rồi! Được thấy những giọt nước mắt của Hoàng đế nhỏ khi nghe tôi hót là một ân huệ lớn đối với tôi.
Hoạ mi lại cất tiếng hót êm đềm thấm thía như để tạ ơn.

Các bà phu nhân thì thào với nhau:
- Không còn gì tuyệt bằng.
Có bà còn ngậm tí nước vào miệng, khẽ lấy giọng ro ro trong cổ bắt chước tiếng chim. Trong bụng nghĩ cứ làm như thế giọng các bà sẽ biến thành giọng hoạ mi.
Ngay cả các nữ tì, thị vị, những người khách khó tính nhất cũng nhiệt liệt ca ngợi giọng hót của hoạ mi.

Như vậy hoạ mi được cả triều đình và hoàng gia ca ngợi.
Hoàng đế truyền ban cho hoạ mi một chiếc lồng sơn son treo trong cung, chim được phép ra ngoài mỗi ngày hai lần mỗi đêm một lần. Mỗi khi ra ngoài chim được mười hai quan hầu đi theo, mỗi người nâng một sợi tơ buộc vào chân chim. Kiểu du ngoạn như vậy, hoạ mi chẳng thích thú gì.

Cả kinh thành náo nức về con chim. Ai đẻ con cũng muốn đặt tên là hoạ mi, kể cả những đứa có giọng khàn khàn.
Một hôm Hoàng đế nhận được một gói gửi đến bên ngài đề hai chữ "Hoạ mi".
Hoàng đế mở gói, bụng nghĩ chắc lại là một quyển sách nói về chim Hoạ mi.
Nhưng không phải. Trong gói lại là một con hoạ mi nhân tạo, giống hệt con hoạ mi thật, mình, dát đầy kim cương, ngọc xanh ngọc đỏ. Hễ vặn máy chim lại hót lên như hoạ mi thật, cái đuôi vẫy vẫy óng ánh sợi vàng sợi bạc. Cổ chim hoạ mi đeo một cái vòng, trên khắc dòng chữ:
"Tôi là hoạ mi của Hoàng đế Nhật Bản, tôi chưa sánh được với Hoạ mi của hoàng đế Trung Hoa".
Cả triều đình reo lên:
- Tuyệt quá!
Hoàng đế phong cho người mang hoạ mi giả một chức vị cao và ban thưởng.
Triều thần có người bàn cho hai con chim cùng hót, để được nghe một bản song ca của hai con chim hoạ mi tuyệt diệu.
Người ta đã thử nhưng không được, vì con chim hoạ mi thật hót một kiểu riêng của nó, còn hoạ mi giả cứ hót theo nhịp ba.

Quan chưởng nhạc đã biện hộ cho hoạ mi máy nói rằng nó hót không sai đâu, rất đúng nhịp, tôi cũng thường dạy trên lớp như thế.
Nghe quan chưởng nhạc nói vậy, người ta bèn cho chim giả hót một mình. Nó hót rất hay, chẳng kém gì chim thật, lại đẹp nữa, lúc nó hót cứ lóng lánh như nạm kim cương.
Nó có thể hót thông luôn một lúc ba mươi lần mà vẫn hay, người nghe không thấy chán, vẫn cứ muốn nghe nữa.

Nhưng Hoàng đế truyền để chim thật hót một lúc.
Nhưng nhìn trước nhìn sau chẳng thấy chim thật. Thì ra trong lúc mọi người mải mê nghe chim giả hót thì chim thật đã bay về chốn rừng xanh.
Hoàng đế sửng sốt:
- Thế là thế nào?
Quần thần tỏ vẻ tức giận, kết tội chim vong ân bội nghĩa. Cũng có người an ủi như vậy còn là may vì còn giữ được con hay nhất.

Thế là chim giả lại phải hót, có một bài mà nó cứ hót đi hót lại đến mấy chục lần.
Quan chưởng nhạc hết lời ca tụng chim máy, quan quả quyết nó hơn hẳn chim thật, không chỉ vì nó có bộ lông đẹp mà chính vì tài nghệ của nó.
- Muôn tâu bệ hạ - quan chưởng nhạc trình lên Hoàng đế - với con chim thật, chẳng ai biết được nó sẽ hót bài gì; nhưng với con chim máy thì các bài hót được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cứ mở máy các bài sẽ lần lượt hót lên. Cứ việc tháo máy ra, xem các bánh xe sắp đặt thế nào thì hiểu được cách chuyển động của máy và cách phát ra tiếng hót.
Mọi người tán thành ý kiến của quan chưởng nhạc.
Hoàng đế phán rằng phải để dân chúng được nghe chim máy hót, nên chủ nhật quan Chưởng nhạc đem chim máy cho dân chúng nghe.
Dân chúng được nghe hoạ mi hót, ai cũng tấm tắc khen, sau mỗi bài mọi người lại chỉ tay lên trời, lắc đầu kêu "ồ"!
Nhưng có một anh thuyền chài nghèo, đã nhiều lần được nghe hoạ mi hót, lại nói như thế này.

- Khá hay đấy! Khá giống hoạ mi thật đấy! Nhưng nghe như còn thiếu một cái gì ấy.
Vậy là chim thật đã ra khỏi hoàng cung; chim máy được đưa lên địa vị độc tôn.
Người ta đặt nó trên một đệm gấm, bên cạnh giường ngự, xung quanh xếp đầy những bội tinh, châu báu, vàng ngọc là những thứ chim được ban thưởng. Nó được hoàng đế phong cho chức tước cao quý. Về ngôi thứ lâm triều, chim được xếp hàng đầu, bên trái, là thứ bậc cao nhất triều đình.
Quang chưởng nhạc viết một pho sách mười lăm chương ca tụng chim hoạ mi máy, lời lẽ uyên bác, cao siêu. Ai đọc bộ sách ấy cũng gật gù tỏ ra thông hiểu, để khỏi mang tiếng dốt nát.

Sau một năm, Hoàng đế ,triều thần, và cả nước đều thuộc lòng những bài do chim máy hót. Người ta có thể đồng ca với chim. Từ Hoàng đế đến chú bé ngoài phố cũng biết hót.
Rõ thật là hay!

Nhưng một hôm, chim máy đang hót cho Hoàng đế nghe thì bỗng có tiêng kêu đánh sạch trong bụng chim. Dường như có cái gì bị gẫy, các bánh xe quay loạn xạ nghe xoàn xoạt, rồi chim ngừng hót.

Hoàng đế truyền gọi quan ngự y đến bắt mạch chữa cho chim. Nhưng quan ngự y từ chối vì không thuộc chuyên môn của người. Triều đình phải cho gọi một thợ chữa đồng hồ đến. Anh thợ đồng hồ tháo tung cỗ máy xem xét nói rằng các bánh xe mòn nhiều, không có đồ thay; chỉ có thể lắp lại dùng tạm, mỗi năm chỉ được cho chim hót một lần. Nghe tin thần dân cả nước bàng hoàng. Tiếng chim máy hót bây giờ nghe rèn rẹt, nhưng quan chưởng nhạc vẫn khăng khăng rằng tiếng chim máy hót vẫn du dương như trước.

Năm năm sau, nhân dân trong nước nghe một tin dữ. Hoàng đế muôn vàn kính yêu của họ lâm bệnh nặng, không cứu chữa được. Đình thần đã chọn người kế vị. Dân chúng nhớn nhác đến dinh quan thị lang hỏi thăm tin tức.

Hoàng đế tái ngắt, giá lạnh trong long sàng. Văn võ bá quan tưởng người đã băng hà rối rít, xun xoe quanh vị vua mới. Tróng khi đó thị vị và nữ tì vui chơi, thoả thích chuyện gẫu và uống nước chè.

Hoàng đế đáng thương đang hấp hối, người chỉ còn thoi thóp thở.
Cảm thấy có vật gì đè lên ngực, người mở mắt và nhìn thấy thần chết đang cười với người. Thần chết đã lột mũ miện của người, một tay cầm xạ kích một tay cầm hoàng kỳ. Từ các nếp màn che quanh long sàng ló ra những cái đầu lâu kỳ quái; có những cái trông gớm ghiếc, lại có những cái trông nhân từ. Đó là công đức và tội lỗi của Hoàng đế hiện về trong khi thần chết đè nặng lên trái tim người.

- Còn nhớ không? Nhà vua còn nhớ không?
Cái đầu lâu lần lượt hỏi tội nhà vua. Chúng kể ra không biết bao nhiêu là tội, khiến nhà vua toát hết cả mồ hôi và kêu lên:
- Nhưng ta đâu có biết những chuyện ấy?
Rồi ngài hô:
- Cử nhạc lên! Khua trống cái lên! Ta không muốn nghe những lời ma quái nữa!
Mặt ma vẫn cứ trơ trơ, còn thần chết thì vẫn lắc lư cái đầu.
Hoàng đế lại thét lên:
- Cử nhạc! Cử nhạc mau! Chim vàng thân yêu! Hãy hót đi! Hót lên! Ta sẽ ban thưởng cho người vàng bạc, châu báu và chiếc bài vàng. Hót lên! Hót lên đi!
Nhưng chẳng có ai vặn máy, nên chim cứ im lìm. Còn thần chết thì vẫn giương đôi mắt thao láo, trống hốc, nhìn chằm chằm Hoàng đế.

Giữa lúc đó, từ ngoài cửa sổ nổi lên tiếng hót tuyệt vời. Chim hoạ mi bé nhỏ đã từ rừng xanh bay về đậu trên cành cây ngoài vườn. Nghe tin Hoàng đế ốm nặng, chim đã bay về mang lại cho người nguồn sinh lực bằng tiếng hót của mình.
Tiếng hót của hoạ mi vang lên, bóng ma tan dần, máu lại lưu thông trong huyết quản của nhà vua. Thần chết cũng phải lặng đi trước tiếng hót của hoạ mi, rồi lại khuyến khích:
- Cứ hót đi! Hoạ mi! Cứ hót đi!

- Được! nhưng phải trao lại kiếm vàng và mũ miện cho Hoàng đế!
Sau mỗi bài hót của chim, thần chết lại trao trả một bảo vật. Chim tiếp tục hót, ca ngợi cảnh thanh bình nơi nghĩa trang đầy hoa thơm, cỏ lạ. Thần chết không cầm nỗi lòng mong muốn trở lại khu vườn của mình, đã hoá thành một đám mấy trắng bay qua cửa sổ và biến mất.
Hoàng đế reo lên:
- Cảm ơn chim! Cảm ơn chim yêu quí! Ta đã nhận ra hoạ mi rồi. Ta đã vô tình để chim ra khỏi hoàng cung, vậy mà chim vẫn quay về, lại giúp ta xua đuổi tà ma, cứu ta ra khỏi tay thần chết. Ơn ấy không bao giờ ta quên.
Hoạ mi đáp:
- Nhà vua ban thưởng cho chim nhiều rồi. Những giọt nước mắt, nhà vua nhỏ lần đầu tiên nghe chim hót, chim không bao giờ quên cảnh tượng ấy. Đối với một ca sĩ, không có vàng bạc châu báu nào quý giá bằng. Bây giờ xin Hoàng đế yên nghỉ để hoạ mi hót cho người nghe cho mau bình phục.
Rồi hoạ mi lại hót, hoàng đế lại thiếp đi trong giấc ngủ hồi sinh êm đềm.
Lúc ánh bình minh chiếu qua cửa sổ rọi tới long sàng, nhà vua tỉnh giấc trong người sảng khoái vô cùng. Chung quanh chẳng có ai đến hầu, vì họ yên trí vô nhà vua đã băng hà. Duy chỉ có hoạ mi vẫn một mình líu lo bên cạnh Hoàng đế.

Hoàng đế bảo chim:
- Từ nay hoa mi luôn ở bên ta để hót cho ta nghe, còn con chi giả ta sẽ đập tan thành trăm mảnh.
Hoạ mi vội can:
- Xin nhà vua đừng làm như vậy. Chim máy đã làm hết sức của nó, nên giữ nó lại. Còn tôi, tôi không quen sống trong hoàng cung. Xin nhà vua cho phép tôi về rừng, chiều chiều tôi sẽ bay lại đây, đậu trên cành cây, trước cửa sổ này để hót cho nhà vua nghe. Chim sẽ hót lên cuộc đời của những kẻ sung sướng nhưng cuộc đời cũng như cuộc đời của những người đau khổ. Chim sẽ hót lên những điều tốt cũng như những điều xấu người ta chung quanh nhà vua. Tiếng hót của hoạ mi bé nhỏ này sẽ lọt tới những người dân chài nghèo khổ, của những nông dân bần hàn, đến tận những nơi xa hoàng đế và triều đình. Hoạ mi kính trọng tấm lòng nhà vua hơn cả ngai vàng, mặc dầu ngai vàng là biểu hiện thiêng liêng.

Chim sẽ đến, sẽ hót, nhưng chỉ xin nhà vua một điều:
- Chim muốn xin gì trẫm cũng ban - nhà vua nói và đứng dậy ghi chặt thanh kiếm nạm ngọc quí vào ngực.
- Chim chỉ xin bệ hạ một điều là đừng nói cho bất cứ ai biết rằng bệ hạ có một con chim nhỏ đã tâu lên cho bệ hạ biết tất cả mọi điều. Như thế mọi việc sẽ êm đẹp.
Nói rồi chim cất cánh bay đi.
Lúc ấy triều thần bước vào. Họ yên trí hoàng đế đã băng hà. Nhưng mọi người sửng sốt thấy nhà vua đứng dậy quay về phía họ mà phán rằng:
- Chào các ngươi! (Hết)
Đọc Tiếp

Sự Cố Tin Nhắn


Tôi nay, họ hàng nhà Vũ háo hức tập trung tất cả ở nhà bà "Choẽ bò" để bàn việc ngày mai đi dự đám cưới đứa cháu con ông trưởng họ ở vùng kinh tế mới mãi tận trên huyện miền núi Tân Sơn. Mọi người bàn tán về việc ngày mai xem đi thế nào, phương tiện gì, ai đi, ai ở nhà? Cả khoản quà mừng nữa. Rôm rả lắm, khí thế lắm. Xa đấy, đường khó đi lắm đấy, song ai cũng muốn đi. Thì bác ấy cưới đứa đầu phải chu đáo chứ.

Đang náo nức vậy thì cu Chụm giơ cái điện thoại di động ra và oang oang nói với mọi người: "Bố cháu nhắn tin về rằng là anh Quang bỏ chị rồi, không phải đi nữa". Mọi người ngơ ngác. Quái! Sao lại có chuyện đó được nhỉ? Ngày kia cưới rồi, xảy ra cơ sự gì mà lại thế được nhỉ?

"Mày xem lại cẩn thận xem có đúng bố mày nhắn thế không?". Bà Choẽ sốt ruột lo lắng hỏi lại. Cu Chụm giơ chiếc điện thoại "Nó kìa" ra trước mặt mọi người. "Đây, chả bố cháu nhắn thì cái gì đây. Không tin, chị Choè đọc lại xem". "Phải đấy! Con Choè tinh mắt đọc lại cho cả nhà xem có đúng bố mày nhắn thế không?". Cái Choè le te đến cầm chiếc điện thoại và đọc. Đoạn, con bé khẳng định: "Đúng, bố cháu nhắn vậy các cô, các chú ạ". Mọi người ngồi thần ra ngao ngán. Có vị chặc lưỡi: "Đã bảo mà, tìm hiểu có kỹ đâu cơ chứ. Đúng là đồ trẻ con. Thôi sớm cho được việc".

"Cái nhà ông này! Phỉ phui cái mồm ông đi nhé. Chưa đâu ra đâu đã...". Một bà khác bực tực nói. Ông kia cự nự lại: "Đã đã cái gì! Chả thế lại không ư. Nó mà ở với nhau dăm ba tháng rồi thì là rách chuyện. Bỏ sớm là tốt đấy". "Mọi người bình tĩnh nào. Để hỏi lại cho chắc chắn đã. Cu Chụm đâu, mày điện lại hỏi bố mày xem sao nào?". "Phải đấy! Hỏi cho chắc chắn kẻo tội cho nó".

Thằng Chụm bấm máy. "Không có tín hiệu gì cả mẹ ạ", nó nói. "Chắc bố mày chán quá bỏ máy rồi". "Biết đâu ngoài vùng phủ sóng thì sao?". "Ngoài là ngoài thế nào. Lúc nãy còn nhắn tin được cơ mà?". "Hay là hết pin?". Mỗi người mỗi câu song nghi vấn vẫn là nghi vấn. Cuối cùng mọi người đành giải tán. Kế hoạch đi đám cưới ngày mai đang hồ hởi phấn khởi thế bỗng xẹp xuống như quả bóng xì hơi.

Tối mịt hôm sau, cu Chụm bỗng nhận được điện thoại của bố nó. Ông Choẽ quát lên trong máy: "Mai cưới anh Quang mày rồi sao dưới quê không có ai lên thế?". Cu Chụm giật mình: "Sao bố nhắn tin về là anh Quang bỏ chị ấy rồi không phải đi nữa cơ mà?". "Tao nhắn thế bao giờ?". "Tối qua bố ạ!". Ông Choẽ gào lên: "Tao nhắn là anh Quang bố trí rồi, không phải gì nữa nghĩa là nó chuẩn bị máy ảnh rồi không phải mang ở quê lên nữa, hiểu chưa?". "Sao hôm qua con điện lại bố lại bỏ máy?", Chụm hỏi lại. "Hết pin ngốc ạ. Bố mày phải ra tận phố huyện để điện về đây. Bảo mọi người sớm mai lên ngay không thì ê mặt với dân làng, họ hàng nhà người ta nghe chưa. Đêm cũng phải đi đấy!". Thằng Chụm vâng dạ rối rít. Đoạn, nó mở lại dòng tin nhắn của bố nó. Dòng chữ lưu làm chứng vẫn còn nguyên "hiện trường": "A. Quang da bo chi roi, khong phai di nua". Rồi nó kêu lên: "Bố ơi là bố! "Bố trí" bố lại viết thành "bo chi", "gì" bố lại viết là "di" thì con chả dịch thành "bỏ chị" và "đi" nữa còn gì! Vừa không dấu, vừa sai chính tả lo chả trách!

Chụm ta toe toét nói lại sự kiện này với mẹ nó. Cả nhà vừa buồn cười vừa bực mình. Sau đó họ vội phân công nhau đi báo anh em họ hàng. Cũng may, đêm đó họ hàng nhà ông Choẽ đã từng cặp một cưỡi trên hai chục chiếc xe máy rầm rầm tiến ra khỏi cồng làng theo hướng tây bắc vượt gần trăm cây số lên huyện miền núi Tân Sơn để kịp dự đám cưới. Dân làng Cổ Cò thấy sự lạ đêm đó mấy ngày sau mới biết cái sự cố tin nhắn đó của cha con ông Choẽ. Suýt vì chiếc điện thoại di động mà họ hàng nhà ông Choẽ mất bữa cỗ bự.
Đọc Tiếp

Tên
Địa Chỉ Email
Tên bài Test
Điền Đáp Án ở đây
Image Verification
Please enter the text from the image
[ Refresh Image ] [ What's This? ]

  ©Copyright by Entertainment 2 Share 2009

Back to TOP